Kết nối với chúng tôi:

Khoa học

COVID-19 đang lây lan nhưng khoa học khuyên đừng hoảng loạn, vì sao?

Đã đăng

 ngày

 
Sợ là bản năng tự nhiên của con người, nhờ biết sợ các mối nguy đe đọa sinh tồn của mình nên nhân loại mới còn tồn tại đến ngày nay. Trước tình hình dịch bệnh COVID-19 đang lan rộng, chúng ta sợ là điều đương nhiên.
COVID-19 đang lây lan nhưng khoa học khuyên đừng hoảng loạn, vì sao? - Ảnh 1.
Người dân lô A1 chung cư Hòa Bình chờ người thân đến trong thời gian bị cách ly sau khi có một người ở chung cư bị COVID-19 – Ảnh: NGỌC PHƯỢNG

Tuy nhiên đừng để nỗi sợ làm ta trở nên hoảng loạn, không còn khả năng suy luận đúng đắn bằng lý trí, dẫn tới tin vào những tin đồn vô căn cứ và những biện pháp phòng ngừa không có cơ sở khoa học đang tràn lan trên mạng.

Các nhà khoa học có uy tín đã đưa ra những thông tin để chúng ta hiểu rõ hơn về mức nguy hiểm của dịch bệnh COVID-19 và lý do tại sao chúng ta đừng nên quá sợ hãi, rằng việc bị nhiễm virus SARS-CoV-2 không có nghĩa là cầm chắc cái chết.

Dưới đây là 10 lý do để chúng ta không hoảng loạn trước sự lây lan của COVID-19, theo TS Ignacio López-Goñi – nhà vi sinh học tại Đại học Navarra (Tây Ban Nha):

1. Khoa học đã hiểu rõ về con virus SARS-CoV-2

Năm 1981, xảy ra ca nhiễm virus HIV đầu tiên, phải mất 2 năm trời giới khoa học mới nhận dạng được chủng virus mới này. Còn đối với virus SARS-CoV-2, những ca nhiễm đầu tiên xuất hiện vào ngày 31-12-2019. Chỉ một tuần sau, vào ngày 7-1-2020, y giới đã nhận dạng được chủng virus mới này và xác lập được bản đồ gen của nó. 

Nhờ vậy, giới y khoa hiểu rõ hơn về sự đột biến sinh học của nó, một yếu tố rất quan trọng để nghiên cứu thuốc trị và văcxin.

2. Giới y học có cách phát hiện virus nhanh chóng hơn

Chưa đầy nửa tháng kể từ khi xuất hiện các ca nhiễm đầu tiên, ngày 13-1-2020, ngành y tế đã chế tạo được bộ dụng cụ xét nghiệm nhanh xem một người có bị nhiễm virus hay không. Hiện đã có những thiết bị xét nghiệm mới chế tạo với thời gian cho ra kết quả nhanh hơn (30 phút) thay vì phải mất đến 6 tiếng như trước.

3. Tình hình dịch bệnh đã được cải thiện rõ rệt ở Trung Quốc

Sau thời gian gần 2 tháng hoành hành dữ dội ở Trung Quốc, nhờ những biện pháp quyết liệt và cứng rắn của chính phủ nước này, sự lây lan của dịch bệnh đã được kềm chế. Ở các nước khác, các chỉ báo cho thấy dịch chỉ xuất hiện ở một số vùng, điều này sẽ giúp chính phủ các nước dễ dàng hơn trong việc cô lập các tâm dịch để ngăn chặn lây lan.

4. 81% trường hợp nhiễm là nhẹ, không làm chết người

Trong 81% trường hợp nhiễm, người bị nhiễm không xuất hiện dấu hiệu bệnh hoặc có nhưng khá nhẹ và sau đó tự khỏi nhờ hệ miễn nhiễm của cơ thể đã diệt được virus. Còn lại 14% trường hợp, người nhiễm bị viêm phổi rất nặng phải điều trị hỗ trợ, còn lại 5% bệnh trạng rất nặng và có thể tử vong, nhất là những người ở lứa tuổi từ 60 trở lên hoặc có tiền sử bệnh về hô hấp, tim mạch, tiểu đường…

COVID-19 đang lây lan nhưng khoa học khuyên đừng hoảng loạn, vì sao? - Ảnh 2.
Một phụ nữ đeo khẩu trang ngừa COVID-19 tại London, Anh – Ảnh: REUTERS

5. Trẻ em ít bị nhiễm, nếu nhiễm cũng khá nhẹ

Những người ở độ tuổi 20 ít bị nhiễm nhất, chỉ có 3% bị nhiễm. Những người dưới 40 tuổi bị nhiễm thì chỉ 0,2% là bị tử vong. Trẻ em ít bị nhiễm nhất và bệnh trạng là khá nhẹ.

6. Số ca hồi phục cao

Hầu hết các trường hợp nhiễm bệnh đều được chữa khỏi. Tỉ lệ người bị nhiễm đã hồi phục cao gấp 13 lần số người nhiễm bị chết.

7. Virus SARS-CoV-2 có thể bị tiêu diệt dễ dàng

Virus SARS-CoV-2 có thể bị tiêu diệt trong vòng 1 phút bằng xà phòng thông thường, cồn y tế từ 70 độ trở lên, các chất diệt khuẩn và chất khử trùng như nước oxy già (hydrogen peroxide 0,5%) hoặc chất tẩy rửa thông dụng như nước javen (sodium hypochlorite 0,1%).

8. Các nhà khoa học thế giới đã hợp lực lại trên quy mô toàn cầu để chống dịch bệnh

Năm 2003, khi xảy ra đại dịch SARS, trong thời gian hơn 1 năm trời chỉ mới có 60 công trình nghiên cứu về virus SARS được chia sẻ trên mạng chia sẻ thông tin y học thế giới PubMed (PubMed là mạng do cộng đồng y khoa quốc tế thành lập, dùng để chia sẻ các thông tin y học cực kỳ hữu ích cho công cuộc điều trị và phòng chống dịch bệnh toàn cầu).

Còn hiện nay, khoa học và y giới toàn cầu đã hợp lực lại và liên kết chặt chẽ với nhau để chống lại kẻ thù chung của nhân loại. Chỉ sau 1 tháng đã có 164 công trình nghiên cứu về con virus SARS-CoV-2, bao gồm các thông tin về thí nghiệm thuốc trị, bào chế văcxin, kinh nghiệm điều trị, nghiên cứu về gen virus… được công bố trên PubMed và sẽ còn nhiều công trình nghiên cứu nữa. Càng hiểu rõ về “kẻ thù” sẽ càng giúp cho y giới sớm tìm được cách trị con virus quái ác này.

9. Một số mẫu văcxin ngừa virus SARS-CoV-2 đang được thử nghiệm

Nhờ những tiến bộ công nghệ về thiết bị y khoa, máy tính và trí tuệ nhân tạo, việc nghiên cứu một loại văcxin và thuốc điều trị mới không còn phải mất nhiều năm như trước đây. Hiện nay đã có 8 dự án nghiên cứu bào chế văcxin của một số quốc gia có nền y học tiên tiến.

10. Một số thuốc kháng sinh mới đang được thử nghiệm

Hiện đang có khoảng 80 thử nghiệm lâm sàng dùng các loại kháng sinh – trước đây dùng vào điều trị các bệnh nhiễm khuẩn khác. Loại kháng sinh mới nhất là remdesvir, vốn được phát triển để trị bệnh do virus Ebola và SARS, nay dùng trị virus SARS-CoV-2 đã mang lại một số kết quả ban đầu khá khả quan.

Một loại thuốc có từ lâu đời là chloroquin – vốn trước đây chỉ để trị sốt rét, khi phối hợp cùng các thuốc khác cũng cho thấy có khả năng ngăn chặn sự phát triển của virus trong cơ thể.

Các thử nghiệm khác như dùng thuốc oseltamivir (dùng trị virus cúm), dùng protein interferon-1b (đây là protein có chức năng kháng khuẩn trong cơ thể người), kháng huyết thanh trích từ các người nhiễm đã hồi phục và kháng thể đơn dòng để vô hiệu hóa virus.

Các liệu pháp điều trị mới đang được nghiên cứu với sự hỗ trợ của công nghệ trí tuệ nhân tạo AI giúp thu ngắn thời gian tìm kiếm và đạt hiệu quả cao hơn.

Tiến sĩ Ignacio López-Goñi hiện đang giảng dạy môn vi sinh và ký sinh trùng tại đại học Navarra (Tây Ban Nha), ông là nhà khoa học có uy tín cao với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về vi khuẩn, vaccine và dịch bệnh. Năm 2016, ông được trao giải thưởng khoa học uy tín Tesla vì các công trình nghiên cứu của mình.

Theo ĐỒNG PHƯỚC (Nguồn: sciencetimes, ipsnews) – Tuổi Trẻ

Rate this post

Khoa học

Cần Thơ sụt lún nhanh nhất ở miền Tây

Đã đăng

 ngày

Bởi

Tốc độ sụt lún ở thành phố trung tâm miền Tây là hơn 5cm/năm, nhiều nhất so với các địa phương khác trong vùng. Khai thác nước ngầm được xem là nguyên nhân chính của thực trạng này.
Cần Thơ sụt lún nhanh nhất ở miền Tây - Ảnh 1.
Ngoài nguyên nhân khai thác nước ngầm quá mức, tải trọng cơ sở hạ tầng cũng góp phần làm sụt lún ở TP Cần Thơ cao hơn các địa phương khác trong vùng – Ảnh: CHÍ QUỐC

Tại hội thảo “Quản trị sụt lún và quản lý nước ngầm khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” tổ chức ở thành phố Cần Thơ ngày 22-3, ông Phạm Anh Huân – trưởng phòng quản lý tài nguyên nước và môi trường Sở Tài nguyên – môi trường thành phố Cần Thơ – cho biết tốc độ sụt lún do Bộ Tài nguyên và môi trường đo lường ở thành phố này là 4,37cm/năm trong giai đoạn 2005-2017.

Còn số liệu phân tích ảnh vệ tinh trong những năm 2015-2019 cho thấy tốc độ sụt lún của thành phố Cần Thơ vượt quá 5cm/năm ở hầu hết các khu vực trên địa bàn.

Tiến sĩ Hà Quang Khải (Đại học Bách khoa TP.HCM) cho biết với những số liệu trên, thành phố Cần Thơ đang dẫn đầu miền Tây về tình trạng sụt lún, bởi các địa phương khác trong vùng có tốc độ sụt lún trung bình 1,1 – 3cm/năm.

Tại hội thảo, các chuyên gia có cùng chung nhận định hai tác nhân chính gây ra sụt lún ở quy mô lớn, cấp khu vực là quá trình khai thác nước ngầm và quá trình nén tự nhiên của phù sa tầng nông.

Riêng tại Cần Thơ, ngoài việc khai thác nước ngầm nhiều, tải trọng cơ sở hạ tầng cũng góp phần làm sụt lún nhiều hơn các địa phương khác trong vùng.

Trả lời câu hỏi của các đại biểu cho rằng tình trạng ngập lụt đô thị có phải do phát sinh từ sụt lún hay không, tiến sĩ Khải cho rằng việc sụt lún có thể khiến ngập lụt thêm trầm trọng hơn, còn nguyên nhân ngập lụt có phải hoàn toàn do sụt lún hay không cần nghiên cứu thêm.

Ông Nguyễn Thực Hiện – phó chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ – cho biết thành phố đã và đang triển khai việc khoanh định vùng hạn chế khai thác nước ngầm trên địa bàn và thực hiên các biện pháp kiểm soát tình trạng này nhằm giảm tối đa sụt lún.

Theo CHÍ QUỐC – Tuổi Trẻ

Rate this post
Đọc tiếp

Khoa học

Mực nước sông Dương Tử giảm dần trong 40 năm, chuyện gì xảy ra?

Đã đăng

 ngày

Bởi

Xem xét những số liệu ghi nhận được trong vài chục năm qua ở nhiều trạm đo kết hợp cùng ảnh vệ tinh, các nhà khoa học phát hiện mực nước trên sông Dương Tử, Trung Quốc giảm khoảng 2cm mỗi 5 năm kể từ năm 1980.
Mực nước sông Dương Tử giảm dần trong 40 năm, chuyện gì xảy ra? - Ảnh 1.
Mực nước trên sông Dương Tử giảm khoảng 2cm mỗi 5 năm kể từ năm 1980

Mặc dù mức giảm 2cm này là ít, các nhà nghiên cứu cảnh báo rằng về tổng thể, sự việc có thể gây ra những tác động lớn về môi trường và kinh tế.

Theo báo South China Morning Post, trong nghiên cứu đăng trên tạp chí Advances in Water Science số tháng 2-2021, tác giả Nie Ning và các đồng nghiệp ở Bộ Giáo dục Trung Quốc cho rằng mực nước Sông Dương Tử thấp dần chủ yếu là do biến đổi khí hậu và tác động của con người như làm thay đổi cảnh quan, xây đập thủy điện…

Có khoảng 460 triệu người sinh sống dọc theo sông Dương Tử, trong đó trụ cột kinh tế là thành phố Thượng Hải. Do hoạt động công nghiệp tăng, đã có hơn 1.000 hồ nước ven sông bị lấp. Trước đây, các nhà khoa học cho rằng tổng lượng nước trên sông không thay đổi nhưng nghiên cứu mới cho thấy điều ngược lại.

Để đưa ra ước tính gần đúng, nhóm của Nie kết hợp số liệu của các trạm quan trắc trên mặt đất với ảnh vệ tinh có thể phát hiện sự thay đổi của trọng lực do nước gây ra.

Họ kết luận biến đổi khí hậu mà hệ quả là các hiện tượng khí hậu bất thường như nắng nóng làm giảm lượng mưa đổ vào sông Dương Tử.

Nhiệt độ ấm hơn cũng làm mực nước cao/thấp của dòng sông giãn rộng, gây lũ lụt và hạn hán nhiều hơn. Lượng bốc hơi nước cũng tăng, một phần do nhiệt độ cao, một phần do tác động của con người tại các thành phố lớn.

Vai trò của các đập thủy điện, theo các nhà nghiên cứu là có tác động tiêu cực tương đối nhỏ với lượng nước. Hoạt động của 15 đập thủy điện lớn, trong đó có đập Tam Hiệp, khiến mực nước sông giảm vào mùa đông và mùa xuân và tăng lên trong những tháng ấm nóng còn lại.

Xie Zhicai, nhà nghiên cứu của Viện Thủy sinh tại Học viện Khoa học Vũ Hán (không thuộc nhóm nghiên cứu), cho biết mực nước sông giảm có thể gây ra các tác động ngoài dự đoán đến môi trường. Chẳng hạn, nồng độ các chất ô nhiễm trong nước sông có thể tăng lên và gây hại đến các loài thủy sinh dễ bị tổn thương.

Ít nước hơn cũng có nghĩa là các đập thủy điện có vai trò lớn hơn trong việc điều tiết nước, phá vỡ các chu trình tự nhiên. Một số loài cá, trong đó có cá tầm – rất nhạy cảm với sự thay đổi của nhiệt độ và mực nước – sẽ bị ảnh hưởng. Cụ thể, hoạt động sinh sản của chúng có thể bị đảo lộn.

Báo cáo khẳng định, hiện tại, sông Dương Tử không thiếu nước, mực giảm vẫn thấp, nhưng tác động tiêu cực có thể xảy ra về lâu dài.

Một nhà khoa học ẩn danh chia sẻ với báo South China Morning Post rằng giảm mực nước trên sông Dương Tử có thể có hại nhiều hơn so với những gì báo cáo chỉ ra.

Hiện tại mỗi ngày, một lượng nước lớn không được tiết lộ đều đặn được lấy khỏi sông Dương Tử để đưa lên phía bắc, đến các thành phố khô hạn, trong đó có Bắc Kinh.

Theo chính quyền địa phương, hơn một nửa lượng nước tiêu thụ ở Bắc Kinh đến từ sông Dương Tử.

Theo nhà nghiên cứu ẩn danh này, có vẻ như chính quyền Trung Quốc cũng đã biết về tác động của việc giảm mực nước trên sông nên đã siết các dự án xây dựng mới dọc theo sông Dương Tử. Từ tháng 1-2021, tất cả hoạt động đánh bắt cá trên sông cũng bị cấm trong 10 năm để bảo vệ dòng sông khỏi đánh bắt cá quá mức và ô nhiễm.

Theo HỒNG VÂN – Tuổi Trẻ

Rate this post
Đọc tiếp

Khoa học

Ảnh chụp thiên hà ‘Mắt Quỷ’ cách 17 triệu năm ánh sáng

Đã đăng

 ngày

Bởi

Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) công bố ảnh chụp tuyệt đẹp về thiên hà xoắn ốc NGC4826 trong chòm sao Hậu Phát.
Hubble gửi về Trái Đất ảnh chụp tuyệt đẹp về thiên hà Mắt Quỷ. Ảnh: NASA/ESA.
Hubble gửi về Trái Đất ảnh chụp tuyệt đẹp về thiên hà Mắt Quỷ. Ảnh: NASA/ESA.

Hình ảnh cận cảnh mới được chụp bởi camera trường rộng 3 trên Kính viễn vọng không gian Hubble cho thấy rõ dải khí bụi sẫm màu khổng lồ bao quanh hạt nhân của NGC4826, điểm đặc trưng khiến nó được mệnh danh là thiên hà Mắt Đen hay Mắt Quỷ.

Sự kết hợp màu sắc được tạo ra từ các lần phơi sáng riêng biệt chụp trong ba vùng “có thể nhìn thấy, cận hồng ngoại và cực tím” của quang phổ. Các nhà thiên văn học đã sử dụng 5 bộ lọc để lấy mẫu các bước sóng ánh sáng khác nhau, sau đó tổng hợp chúng lại để đem đến cái nhìn ấn tượng nhất về thiên hà NGC4826.

NGC4826 nằm cách Trái Đất khoảng 17 triệu năm ánh sáng và có đường kính nhỏ hơn một nửa so với dải Ngân Hà của chúng ta. Kể từ khi được phát hiện vào năm 1779, thiên hà xoắn ốc này thu hút sự quan tâm lớn của giới thiên văn bởi chuyển động kỳ lạ của các dải khí bụi bên trong nó.

“Khí ở các vùng bên ngoài và bên trong của thiên hà NGC4826 đang quay ngược chiều nhau, điều này có thể liên quan đến một sự kiện hợp nhất gần đây. Các ngôi sao mới đang hình thành trong vùng va chạm giữa các dải khí bụi”, NASA cho biết.

Các nhà thiên văn học giải thích rằng NGC4826 có thể đã va chạm và sáp nhập với một thiên hà vệ tinh giàu khí khác, hoặc được bồi tụ bởi các đám mây khí bụi khổng lồ từ môi trường liên sao.

Đoàn Dương (SciTech Daily) – Vnexpress

Rate this post
Đọc tiếp
Advertisement

Facebook

Advertisement

Tin Nổi bật

    Paste your advertisement code here.