Ngày 10/7, ông Lê Văn Dư – 42 tuổi, bị TAND TP HCM xử thua kiện trong vụ tranh chấp đất với nguyên đơn Phan Quý (67 tuổi, cựu cán bộ VKSND TP HCM), gửi đơn đến TAND Cấp cao và VKSND Cấp cao đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trước đó, vợ ông Dư là bà Hiệp (người có quyền, nghĩa vụ liên quan) không đồng tình với phán quyết của TAND TP HCM nên la hét, lao ra khỏi phòng xử định nhảy lầu nhưng được lực lượng bảo vệ tòa kịp thời ngăn cản.
Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm, ông Dư cho rằng, khi TAND quận Gò Vấp thụ lý đơn kiện của ông Phan Quý đã xác định đây là vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày giao dịch). Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm của TAND TP HCM, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện từ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thành Tranh chấp quyền sử dụng đất (không tính thời hiệu khởi kiện) và được HĐXX chấp thuận ngay.
“Như vậy, HĐXX đã giải quyết vượt quá phạm vi xét xử. Tức là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 293 và khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015″, đơn của ông Dư nêu.
Theo ông Dư, quá trình xét xử phúc thẩm ông đã đưa ra các chứng cứ cho thấy chủ tọa phiên tòa với nguyên đơn Phan Quý là bạn thân, có quan hệ làm ăn mua bán đất tại quận 9 nên đề nghị thay đổi thẩm phán. Tuy nhiên, HĐXX không xác minh các chứng cứ mà bác yêu cầu với lý do “không có cơ sở”.
Bị đơn cũng cho rằng, HĐXX đã sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Ở vụ án này, nguồn gốc phát sinh tranh chấp, bất đồng giữa các bên là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại tòa phúc thẩm, các bên chỉ tập trung đánh giá hình thức, nội dung, hiệu lực… của hợp đồng. Nguyên đơn Phan Quý yêu cầu tòa tuyên hợp đồng vô hiệu. Bị đơn đề nghị tòa công nhận hợp đồng.
Nếu toà phúc thẩm đã xác định quan hệ Tranh chấp quyền sử dụng đất thì phải áp dụng các quy định của Luật Đất đai. Nhưng khi tuyên án, tòa lại dùng Bộ luật Dân sự để phân tích và tuyên “hợp đồng vô hiệu”. “Như vậy, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án là méo mó, tùy tiện”, đơn đề nghị giám đốc thẩm nêu.
Ngoài ra, trong đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, bản tự khai cũng như phần trình bày tại tòa sơ thẩm, phúc thẩm, không có bất cứ nội dung nào thể hiện nguyên đơn tự nguyện thanh toán thêm 9%/một năm, cho số tiền đã nhận từ các bị đơn. Tuy nhiên, khi tuyên án và trong bản án phúc thẩm lại có nội dung này.
Từ đó, ông Dư đề nghị TAND Cấp cao tại TP HCM tuyên hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND quận Gò Vấp xét xử lại theo hướng công nhận các hợp đồng chuyển nhượng đất của ông Quý cho các đồng bị đơn…
Theo bản án phúc thẩm, vợ chồng ông Quý có 3.500 m2 đất trồng cây hàng năm tại phường 15, quận Gò Vấp. Ngày 3/2/2002, họ bán cho ông Sĩ 500 m² đất bằng giấy tay giá 500 triệu đồng. Đến tháng 4/2009, vợ chồng ông Quý tiếp tục bán cho ông Dư và người cháu mỗi người 87 m² bằng giấy tay, giá 435 triệu đồng.
Ông Dư sau đó mua lại toàn bộ phần đất của người cháu và ông Sĩ, lập hợp đồng nhưng không công chứng. Đến năm 2017, ông Quý cho rằng, khi bán đất đã thỏa thuận với các bị đơn “hợp đồng chưa được công chứng nên các bên không được làm thay đổi hiện trạng đất”. Nhưng ông Dư đã xây dựng trái phép trên phần đất diện tích 674 m2 nên đề nghị UBND phường xử lý.
Đồng thời, tháng 6/2017, ông Quý khởi kiện ông Dư cùng người cháu, ông Sĩ, ra TAND quận Gò Vấp, yêu cầu tòa tuyên 3 hợp đồng chuyển nhượng đất trước đây vô hiệu; công nhận 647 m² thuộc quyền sở hữu của ông Quý và ông sẽ trả lại tiền nhận trước đó là 1,36 tỷ đồng. Lúc này, giá trị khu đất là hơn 10 tỷ đồng.
Hồi tháng 11 năm ngoái, TAND quận Gò Vấp xử sơ thẩm, tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Sĩ, công nhận 500 m² đất này cho vợ chồng ông Quý. Bởi thời điểm bán đất vợ chồng ông Quý chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Toà buộc vợ chồng ông Quý phải thanh toán cho vợ chồng ông Dư hơn 5,5 tỷ đồng (tương đương giá trị 500 m2 vợ chồng ông Quý nhận lại theo định giá); buộc gia đình ông Dư và những người đang ở trên khu đất phải hoàn trả lại cho vợ chồng ông Quý.
Đồng thời, HĐXX cũng chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Dư, công nhận hai hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Quý với ông Dư, ông Thắng tổng cộng là 174 m2. Ông Dư được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để tách thửa, đăng ký quyền sử dụng đất với 174/674 m2 đã mua.
Không đồng ý với phán quyết của tòa, phía nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo. VKSND quận Gò Vấp cũng kháng nghị về nhiều nội dung, đề nghị toà phúc thẩm hủy án sơ thẩm để xét xử lại.
Hôm 1/7, TAND TP HCM xử phúc thẩm tuyên bác kháng nghị của VKS và kháng cáo của bị đơn, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Tòa buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ 674 m2 đất cho ông Quý. Ông Quý có nghĩa vụ trả lại phần tiền đã nhận của các bị đơn cùng lãi suất đến ngày giải quyết vụ án.
Theo HĐXX, đây là vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND quận Gò Vấp cấp cho ông Quý năm 2008, 674 m2 đất các bên đang tranh chấp vẫn do vợ chồng nguyên đơn đứng tên. Phần diện tích đất ông Dư nhận chuyển nhượng từ ông Quý cũng như mua lại của người cháu, ông Sĩ, chưa được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định và chưa được cấp giấy chứng nhận.
Hơn nữa, theo các tài liệu từ cơ quan chức năng, ông Dư đã xây dựng trái phép trên phần đất mua lại của ông Quý và bị buộc tháo dỡ. Do đó, hợp đồng mua bán giữa nguyên đơn với các bị đơn là vô hiệu…
Liên quan đến vụ án, TAND Cấp cao tại TP HCM đã yêu cầu TAND TP HCM báo cáo, chuyển hồ sơ lên để nghiên cứu và xem xét. VKSND Cấp cao tại TP HCM cho biết đã thụ lý đơn giám đốc thẩm của ông Dư và sẽ giải quyết theo quy định.
Hải Duyên – Vnexpress